TRÊN KIẾN TRÚC TRUYỀN
THỐNG MIỀN TRUNG VIỆT NAM
(Tài liệu tham khảo cho các thuyết
minh viên)
I.
Hệ thực vật
Ở Trung Quốc có 12 cây
hoa quả làm biểu tượng cho 12 tháng:
-
Mơ:
Tháng
Giêng
-
Đào: Tháng
Hai
-
Mẫu
đơn: Tháng
Ba
-
Anh
đào: Tháng
Tư
-
Mộc
lan (Magnolia): Tháng Năm
-
Lựu: Tháng Sáu
-
Sen: Tháng Bảy
-
Lê: Tháng Tám
-
Cẩm
quỳ (Mallow): Tháng Chín
-
Cúc: Tháng Mười
-
Dành
dành (Gardenia): Tháng Mười Một
-
Anh
túc (Poppy): Tháng Chạp
Và 4 loài hoa đặc trưng cho 4 mùa (tứ
thời):
-
Mẫu
đơn: Xuân
-
Sen: Hạ
-
Cúc: Thu
-
Mơ: Đông
Ở
Việt Nam
(miền Trung): mai: xuân; sen: hạ; cúc: thu; trúc: đông, nên thường gọi là bộ tứ
thời là tứ quý: mai, lan, cúc, trúc.
1.
Cây Bách – Tùng:
Họ Thông (Pinus Bungeana) là loại
thực vật chịu đựng bền bỉ trước thiên nhiên khắc nghiệt. Mang ý nghĩa của người
quân tử, không quản ngại mọi thử thách và còn biểu tượng cho sự trường thọ. Đề
tài chạm trổ thường được thể hiện cặp Tùng – Lộc (cây tùng với con nai) biểu
tượng kết hợp của sự trường cửu (tùng) + phú quý (lộc: nai)
2.
Quả Bầu
-
Họ
cây leo thuộc loài Cucurbitaceae.
-
Dạng
bầu eo thuộc giống Lagernaria Siceraria.
-
Là
loài có nhiều hạt, mang biểu tượng sung mãn phồn thực.
-
Là
nguồn gốc của sự sống, của sự tái sinh, nguồn gốc nơi sinh ra các dân tộc trong
đó có người Việt.
-
Là
quả có 2 hình cần như dáng chiếc nồi nấu luyện
thuốc của nhà luyện đan và có dáng hình núi Côn Luân (Trung Quốc) của người
theo Đạo giáo hay bình đựng nước cam lồ của Bồ
Tát Quán Thế Âm …
-
Thường
trang trí ở nóc điện, đình miếu; các ô hộc, bụng đòn tay trong các kiến trúc cổ
bằng gỗ. Quả bầu thường đi theo dải trang trí hồi văn, hoặc nơ thắt.
3.
Cây bồ đề
Thuộc loài Ficus Religiosa. Tiếng
Sankrit (tiếng Phạn) gọi là Bodhidruma (cây của trí tuệ) có tên khác là “Tư duy
thụ”. Là nơi mà đức Phật đã ngồi gắn liền với sự tu
chứng và giác ngộ. Có nguồn gốc ở Gaya
thuộc xứ Bengal, được chiếc trồng tại thành phố Amarapoora ở Myanmar, nay vẫn còn sống. Thường
thể hiện với hình thức “Lá đề” (dạng trái tim ngược) kiểu trang trí hồi văn ở
những diềm đỡ mái (đường viền)
4.
Trái cam
Tượng trưng cho sự sung mãn như quả
bầu, mãng cầu, lựu … và còn mang ý nghĩa sự ngọt ngào. Được thể hiện trong các
ô hộc của kiến trúc nhưng nhiều nhất là ở các đồ gỗ trang trí nội thất như mâm
quả các dạng cao đê kỷ (gồm bình hoa, lư trầm
và đĩa bát quả hoặc ngũ quả)
5.
Lá chuối ba tiêu
Musa sapientum: Là loại cây có quả
vùng nhiệt đới, nhưng trái của nó phải nấu mới ăn được. Lá có bản rộng, lượn
sóng, có nhiều rằn sứa theo hình xương cá dọc
sống lá. Cây cao đến 7 – 8 mét.
Truyền thuyết về một Nho sinh già đã
dùng lá chuối Ba Tiêu để thay giấy viết thư pháp. Ông đã tiến bộ và sau này nổi
tiếng. Là biểu tượng cho sự rèn luyện, nghị học
vươn tới thành công.
Được trang trí trên chất liệu gỗ như
liễn, đối .. để thể hiện tài thư pháp. Ngoài ra còn ở trên đồ sứ, đồ thêu.
6.
Lá cọ (Bồ quỳ: Palm tree)
Cây phổ biến ở Việt Nam và Trưng Quốc, thường dùng lá làm quạt. Quạt lá cọ
còn gọi là Quỳ phiếm mang biểu tượng của những vị ẩn sĩ tài hoa.
Trong hội họa Trung Quốc (tranh sơn
thủy) thường diễn tả người ẩn sĩ ngồi dưới gốc cây cọ, tay cầm quỳ phiếm trên
mỏm đá cao gần ngôi thảo am
Trong kiến trúc cổ thường được thể
hiện trong các ô hộc, bụng kèo, đòn tay với biểu tượng bát bửu (một trong 8 món
quý của Lão giáo) là chiếc quạt thần kỳ của Chung Ly Quyền, một trong tám vị bát
tiên của Lão giáo.
7.
Hoa cúc (Chrysanthemum)
Rất phổ biến ở Việt Nam và Trung
Quốc, là loài hoa biểu tượng của mùa thu. Ngày xưa giới thượng lưu, quý tộc
thường bày yến tiệc để thưởng thức hoa cúc nở và ngắm trăng (cúc nguyệt).
Cúc và chữ lưu (giữ lại) có cách phát
âm giống nhau là Ju và tháng chín là cửu đọc là Jin cũng đồng âm với từ cửu. Như vậy mang ý nghĩa là vĩnh cửu, sự
trường thọ, bền bỉ.
Cúc còn biểu tượng cho niềm vui, sự
an lạc, viên mãn và là “bạn đời” của những người từ quan hay nghỉ ngơi. Người
Trung Quốc thường nhắc đến thi sĩ Đào Tiền (365
– 427) đã từ quan và cống hiến cuộc đời cho thi ca, nhạc, rượu, và trồng hoa
cúc.
Là đề tài trang trí phổ biến nhất
trong các cấu kiện kiến trúc cổ bằng gỗ với hình thức cúc dây, cúc leo, lá cúc
… cúc hóa long, phượng, trĩ, cá … ở đầu, đuôi, bụng kèo, đòn tay, các ô hộc ở
khung, đố cửa, khung thành vọng (ở gian thờ), các đồ gỗ trang trí nội thất …
8.
Cây đào (Peach)
Thuộc họ Rosaceae, loại cây cho trái
quý của chốn thần tiên gọi là Tiên quả. Là loại quả làm dược liệu trị bệnh.
Ở miền Bắc thì hoa đào nở tượng trưng
cho mùa xuân nhưng ở miền Trung như từ Huế vào thì là hoa mai. Đào là nét đẹp
của người phụ nữ (sắc mặt như hoa đào).
Vì là loại quả quý ai ăn vào sẽ trở
thành bất tử (cây trồng trong vườn Tây Vương Mẫu, 3000 năm mới kết quả một lần)
nên nhấn mạnh về biểu tượng của quả đào là sự trường thọ, bất tử.
Trang trí phổ biến trên các kiến trúc
gỗ với hoa đào cạnh hoa mai, hoa chanh, thị kết hợp với các hoa văn chữ vạn, tổ
ong … Quả đào được trang trí với các dãi lụa, nơ thắt và còn xuất hiện trong đề
tài Tam đa (Phước, Lộc, Thọ) với hình ảnh ông Thọ cầm quả đào tiên.
9.
Lá ngải (Artemisia)
Khá phổ biến trong kiểu thức trang
trí bát bửu dân gian của Trung Quốc (ngọc rồng, đồng tiền vàng, hình thoi (kim
cương), cái gương, khánh đá, pho sách, sừng tê giác, lá ngải). Và phổ biến
trong biểu tượng bát bửu ở Huế. Mang ý nghĩa hạnh phúc, yên bình, phồn vinh.
Thường trang trí ở các kiến trúc gỗ.
10.
Hoa lài (Jasmine)
Người ta còn gọi là kiểu thức “bông
quỳ” cấu tạo cánh nhọn hơn bông lài và cấu trúc xếp lớp cánh hoa như nhau.
Thỉnh thoảng xuất hiện ở những kiến trúc gỗ.
11.
Hoa lan (Orchid)
Có nhiều loại nhưng bao gồm địa lan
và phong lan. Ít xuất hiện trên kiến trúc nhưng trang trí khá phổ biến trên đồ
gỗ nội thất như trên các loại giá gỗ. Biểu tượng cho sự tương hợp, hòa đồng.
Còn được ví như nét đẹp cần phải khám phá, thanh cao.
12.
Cây lê (Pear)
Truyền thuyết Trung Quốc vào năm 1053
trước công công nguyên có vị quan tên là Triệu Công nổi tiếng vô tư, công bằng,
thanh liêm. Ông thường phán xử những vụ kiện dưới gốc lê hoang. Sự công minh
trong phán xử. Cho nên cây lê là biểu tượng cho sự thông thái, sáng suốt và
nhân đức. Cây lê còn sống lâu năm nên còn biểu tượng cho sự trường thọ. Nhưng
hoa lê lại chóng tàn nên biểu tượng cho tính phù du.
Trong trang trí thường ở dạng kiểu
thức bát quả: Đào, Lựu, Lê, Mận, Phật Thủ, Mãng cầu, Nho, Bầu; trong ngũ quả:
Đào. Lựu, Phật Thủ, Lê, Mãng cầu hoặc tứ hữu: Lê, Lựu, Đào, Mãng cầu. Tất cả
đều mang biểu tượng của sự đông đúc, phú quý, con cháu đầy đàn. Hoa lê không
phổ biến trên các kiến trúc gỗ.
13.
Nấm linh chi (Linh chi thảo: Plant of
long life)
Là cây bất tử của giống nấm Polyporus
lusidus, thường mọc trên rễ của các cây đại thụ hoặc ở các triền núi dựng cạnh
vực sâu. Khi khô nó rất dai, người Trung Quốc biểu tượng cho sự trường thọ và
bất tử. Là chất dinh dưỡng của các đạo sĩ của Đạo giáo như là món ăn thần
thánh. Được trang trí dưới dạng hồi văn uốn vòng như những cánh hoa bám vào có
dạng hình trụ như thân cây ở chạm trổ hoặc đồ đồng.
14.
Cây lựu (Pomygranate)
Cây lựu Punica Grantta, truyền rằng
nó được mang đến vùng Đông Á từ Thạch An quốc (Cabul) năm 126 trước công
nguyên. Vì vậy, nó có tên là An Thạch Lựu. Lựu còn mang ý của mùa hạ. Biểu
tượng chính của trái lựu vì nó có nhiều hạt (tử) như dưa, bầu, … là hình ảnh
của sự đông đúc, phồn thực và khả năng sinh sản. Vì vậy nó mang ước vọng con
cháu đầy đàn nhưng trật tự (cấu tạo bên trong của hạt lựu). Trang trí phổ biến
ở bụng đòn tay, các ô hộc trong kiến trúc gỗ.
15.
Cây mai (Plum)
Loại cây rất phổ biến ở miền Trung và
miền Nam Việt Nam.
Hoa nở báo hiệu mùa xuân. Năm cánh hoa mai là năm vị thần may mắn của ngũ phúc.
Mai vừa biểu tượng của sự trường thọ, sự vững chãi (gốc mai chịu sức công phá
của thời gian) cả phẩm chất đẹp lẫn mối tình nồng thắm hóa đôi (trúc mai).
Thường đề tài trang trí đi đôi như
mai hóa long, hóa giao, hóa phụng. Trong tứ thời: mai, liên (sen), cúc, trúc
hay bộ tứ quý: mai, lan, cúc, tùng.
Hoa mai được trang trí phức hợp chữ
thọ, chữ công, tổ ong, nền mật vọng (mắt võng) hay một cụm mai bên khối đá
trong kiến trúc gỗ hoặc đắp vôi, mãnh sành.
16.
Mãng cầu (Custard Apple)
Còn gọi là quả na. Vì nhiều hạt nên
mang biểu tượng tính phồn thực nhưng cũng mang ý nghĩa sự mãn nguyện, toại
nguyện do liên tưởng sự đồng âm.
Thường trang trí độc lập trong các
tranh nề có ô hộc như bức bình phong, tường (đắp vôi, tô màu, gắn mãnh sành),
dưới bụng đòn tay.
17.
Mẫu đơn (Peony)
Ở Huế có tên là bông Trang. Cây hoa
mẫu đơn Paeonia Arborea còn có tên là hoa vương hay phú quý hoa. Có nhiều màu
nhưng chuộng nhất là mẫu đơn có cánh đỏ sẫm, viền vàng, nó còn có tên là mẫu
đơn kim. Biểu tượng cho tình yêu, sự thương mến hoặc là nét đẹp của phụ nữ.
Trong
trang trí thường kết hợp đề tài mẫu đơn – trĩ (chim trĩ).
18.
Cây nho (Grape)
Loại cây không phổ biến ở Việt Nam,
nhưng thời vua Khải Định, hình ảnh dây, lá nho được trang trí phổ biến ở các
kiến trúc ở Huế thời bấy giờ.
Đặc điểm cấu tạo lá nho, dây leo,
chùm trái quấn quýt đã gợi sự đông đúc sum vầy. Đề tài được thể hiện bằng sự
kết hợp hình ảnh nho – sóc khá phổ biến trong các đắp nổi trong tranh nề các
bích họa, trong các bức chạm ở bụng kèo, các ô hộc nhà xưa.
19.
Phật thủ (Buddha’s hand)
Phật thủ Titrus Media, còn có tên là
Hương Duyên Quả không ăn được. Mỗi múi Phật thủ vào phần cuối trở nên dài và
nhọn như những ngón tay. Toàn bộ hình dáng của quả như hai bàn tay úp lại với
nhau vì vậy có tên là Phật Thủ (bàn tay Phật). Hình ảnh này rõ nhất là bức
tường ở đầu Chùa Cầu Hội An có đắp vôi hình dáng quả Phật Thủ.
Quả có mùi thơm dễ chịu nên được đặt
trên những bát sành lớn nơi bàn thờ người Huế mỗi khi tết đến. Với biểu tượng
nói lên sự giàu có, vinh hoa, phú quý, sự liên tưởng đến an bình, hướng thiện.
Trang trí trên các ô hộc của kiến trúc cổ, đắp phù điêu bằng vôi vữa thường thể
hiện với hai bàn tay úp vào nhau giữ chặt kim tiền để khỏi rơi tụt.
20.
Hoa sen (Lotus)
Cây phổ biến ở Việt Nam mọc khắp
nơi ở ao, hồ, đồng ruộng. Là loại cây dược phẩm trong y học. Có tên gọi riêng
cho từng thành phần của cây như thân lá ngó sen (ngẫu căng); gương sen (liên
thực), lá sen (hà diệp); củ sen dùng làm thức ăn. Nhụy sen (liên tu) dùng trong
y học làm cầm máu. Hạt sen (liên tử) là hạt dùng để nấu món ăn cao cấp như chim
hầm hạt sen, yến sào hạt sen … Còn tim sen (liên tâm) là dược liệu chữa bệnh
mất ngủ.
Hoa sen được ví như hình ảnh của đức
Phật thường là hình ảnh Phật đứng hoặc ngồi trên đài sen. Cũng là loại hoa liên
quan đến Đạo giáo là vật biểu tượng của Hà Tiên Cô (một trong bát tiên của Lão
giáo).
Là biểu tượng của ý nghĩa đạo đức:
thuần khiết, không bị vấy bẩn, ô uế của bụi trần; tính kiên định (thân cây cứng
rắn); sự thịnh vượng (cây mọc sum suê); con cái đông đúc (nhiều hạt) …
Đề tài thường thể hiện gồm lá, gương,
hoa (búp + nở). Kết hợp quy hóa (sen hóa rùa).
Phổ biến trong trang trí trên kiến trúc gỗ là đề tài sen – vịt (liên – áp), với
ý nghĩa đồng âm trong tiếng Hán là liên đồng âm với từ liên là liên tiếp …Vịt
tên chữ là áp đồng âm với áp là xích gần lại, gắn bó. Nên biểu tượng kết hợp
này có nghĩa là sự hòa hợp, kep sơn trong đời sống lứa đôi.
21.
Cây trúc (Bamboo)
Phổ biến trong trang trí ở các nước
châu Á. Trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình mang biểu tượng của người quân tử
(sống ngay thẳng, kiên định, lòng khiêm tốn, không câu nệ, chẳng chịu gập mình
trước gió mưa).
Là biểu tượng cho sự sống bền bỉ,
trường thọ, bất chấp mọi khắc nghiệt của thiên nhiên. Trong bộ tứ quý: mai,
lan, cúc, trúc; kết hợp kiểu thức cây trúc già (thân, gốc, rễ) hóa long, hóa
giao, hóa phượng … được chạm trổ trong các ô hộc của ngôi nhà xưa.
22.
Cây tùng (Pine: xem cây bách)
Kiểu
thức tùng – hạc là biểu tượng cao nhất của sự trường thọ, vững bền.
Ngoài các biểu tượng từ những cây hoa
quả trên, người xưa còn dùng hình ảnh dạng dây, lá, nụ, mầm được cách điệu để
trang trí trên nóc, mái nhà như mỏ cu, mỏ neo, guột mây hay mụt mây. Các tua
dây chằng chịt làm khung viền, cửa võng, trang trí góc, đố bảng, trướng liễn …
II.
Hệ đề tài động vật
Gồm các nhóm:
+ Lông trần :
Con người
+ Lông vũ :
Phượng hoàng (phụng)
+ Lông phủ : Kỳ
lân
+ Giống có vảy :
Rồng, long mã
+ Giống có mai : Rùa
Các giống thú nhà: trâu,
ngựa, bò, heo, chó, dê, gà được gọi là lục súc. Trừ con chó, năm loài còn lại
được xếp vào loại thú hiến sinh trong các hoạt động nghi lễ tế tự gọi là ngũ
tính.
Về chủ đề chim thường có
nội dung kết hợp là hoa điểu hay thụ - điểu và phổ biến các hình thức với 4 tư
thế: phi (bay); minh (hót); túc (ngủ); thực (ăn). Các đề tài động vật thường
được trang trí trong kiến trúc cổ:
1.
Con cá: thường là cá chép/ cá gáy
Trong tiếng Hán, chữ ngư là cá với
chữ dù là thức thãi có cách phát âm là yu rất giống nhau nên cá mang ý nghĩa sự
giàu có, sung túc.
Với cá chép hóa rồng/ lý ngư hóa long
trong tích Lý khiên long môn/ cá chép vượt vũ môn. Biểu tượng ý chí rèn luyện,
nỗ lực vượt lên trong tu luyện.
Trong trang trí được thể hiện ở máng
xối thoát nước, hình đắp nổi trên bức bình phong, trên bờ nóc mái của kiến trúc
(cổng vào Khuê văn các của Văn Miếu Hà Nội), bàn thờ gỗ của hậu điện Chùa Phúc
Kiến Hội An) và phổ biến nhất ở kèo hiên của các nhà rường ở miền Trung.
2.
Con dơi (Bat)
Trong tiếng Hán từ liên bức để gọi chung các loài dơi (Chiroptera).
Tên gọi là “phụ dực” chỉ tư thế treo mình với 2 chiếc cánh, tên khác “thiên
thử” (chuột nhà trời) hay “phi thử” (chuột bay). Tiếng Hán chữ Bức (con dơi)
đồng âm với chữ “Fou” với chữ phúc trong từ hạnh phúc. Vì vậy biểu tượng con
dơi khá phổ biến ở các cung điện ở Huế với ý nghĩa hạnh phúc và sự trường thọ.
Trong những ngôi nhà Rường (Quảng Nam)
hình ảnh con dơi ngậm vòng thường được trang trí ở tấm gia thu; tấm chéo lòng
3; hai đầu của bụng kèo, bụng đòn tay; các cánh sẽ/ kiến sẽ và rõ nhất là hình
tam giác đắp nổi ở 2 đầu hồi (khu đĩ) với tư thế dang cánh. Kết hợp dơi lồng
vào chữ thọ hoặc miệng ngậm dãi lụa hay song tiền (biểu hiện sự trọn vẹn).
Trang trí với 5 con dơi là hàn ý “ngũ phúc lâm môn” (5 điều phước đến nhà), dơi
ngậm quả đào …
3.
Chim hạc (Crane)
Hạc Grus Montignesia hay sếu
Manchusian là một trong những con vật gắn liền với nhiều biểu tượng và truyền
thuyết khác nhau. Với bốn loại hạc được phân biệt từ màu lông thì loại hạc màu
đen có tuổi thọ cao nhất (600 năm).
Hình dáng con hạc với đôi cánh dang
rộng, một chân co lên mang ý nghĩa chuyên chở linh hồn người chết trên lưng về
miền cực lạc.
Hạc liên kết với rùa với hình tượng
đứng trên lưng rùa (quy hạc). Trong hình tượng rồng thì mai rùa ví như vòm trời
và phần dưới của nó phẳng như mặt đất. Vì vậy rùa mang sứ mạng gánh cả vũ trụ
trên lưng. Trong sự kết hợp này, hạc và rùa được nhấn mạnh đến cứu cánh bất tử
của quan niệm trong Đạo giáo. Kiểu thức này phổ biến trên các đôi chân đèn bằng
đồng đặt ở bàn thờ. Còn Tùng hạc hoặc thạch – hạc – tùng thỉnh thoảng xuất hiện
trang trí ở các ô hộc trong những ngôi nhà Rường.
4.
Con hươu/ nai (Deer)
Trong y học phương Đông, lộc hưu là
loại dược liệu quan trọng trong việc bồi bổ sức khỏe và kéo dài tuổi thọ. Vì
vậy hình ảnh ông thọ trong kiểu thức tam đa: phước, lộc, thọ trùng hợp với phát
âm giữa hai chữ lộc (lu): hươu và lộc (lu): tiền của cho nên hươu cũng biểu
tượng cho sự giàu có, sung túc.
Đề tài hươu bên cội tùng (tùng – lộc)
được trang trí ở các ô hộc và bụng kèo của nhà Rường.
5.
Kỳ lân (Unicorn)
Là một trong bộ tứ linh: long, lân,
quy, phụng. Lân là con vật báo hiệu điều tốt lành, biểu tượng cho sự trường
thọ, sự nguy nga đường bệ, niềm hạnh phúc lớn lao. Con dực được gọi là con kỳ,
con cái gọi là con lân. Có hình dáng của một con hươu xạ, chiếc đuôi bò, trán sói, móng ngựa, da có 5 màu: đỏ, vàng, xanh,
trắng và đen, dưới bụng có màu vàng, giọng kêu như tiếng chuông, có khi như
nhạc cụ. Giống vật hiền lành, không ăn thịt, không dẫm lên bất cứ loài côn
trùng nào. Con vật này xuất hiện thì báo hiệu có vị minh quân, nhà hiền triết
sắp ra đời. Ở Trung Quốc, truyền thuyết nó xuất hiện vào triều vua Nghiêu,
Thuấn và thời điểm Khổng Tử ra đời có sự phân biệt không rõ về kỳ lân, con
Nghê, con Long Mã. Tuy nhiên theo quan sát (của người viết) thì con Long mã chắc
chắn phải có chân móng ngựa và mình như cá. Và con Long mã theo truyền thuyết
nó xuất hiện ở trên Sông Hoàng Hà dưới thời Phục Hy. Nó mang trên lưng cuốn thư
Hà đồ (thường được thể hiện trong kiểu thức Long mã phụ Hà đồ) cơ sở cho việc
hình thành lý thuyết về bát quái sau này.(2)
Trong lễ hội mừng trăng rằm mùa thu
có múa Lân là hình thức cầu trời mưa để chống lại hạn hán. (Con Lân cũng như
con rồng mang đến mưa móc). Con lân đặc biệt rõ
nét là long mã thường trang trí ở các tấm liên ba/ khuôn xuyên bông hậu ở gian
giữa của ngôi nhà rường và trên lưng thường mang thêm hình bát quái (có tô màu
đỏ) nên có thể gọi là kiểu thức Long mã phụ Hà đồ.
6.
Con ngựa (Horse)
Nó được xếp vào hành hỏa và phương vị tương ứng là phương Nam.
Trong đền miếu người ta thờ hình tượng
thần Bạch Mã bằng gốm sứ, gỗ, giấy … Trong kiến trúc gỗ là những hóc chạm đặt
trong ô hộc được phối trí cạnh cây liễu vơi kiểu thức liễu – mã
7.
Phượng Hoàng (Phụng Phoenix)
Là vua tất cả các loài chim. Được mô
tả có cổ họng của con chim nhạn, mỏ gà, cổ rắn, đuôi chẻ như đuôi cá với 12
chiếc lông dài rực rỡ, trán của con hạc, mào của con vịt xiêm … Lông của nó có
5 màu, tiếng hót như nhạc. Là con vật như Lân không giết hại côn trùng, làm hư
hao cây cối, cư ngụ trên cây ngô đồng (Deryanda Cordifolia), ăn hạt hoa trúc và
chỉ uống nước ở các thác phun. Là loài linh điểu, trứng của nó làm thức ăn cho
thần thánh.
Theo truyền thuyết khi Khổng Tử ra
đời, phượng hoàng bay trên trời cao, còn con Lân đang lững thững trên những
ngọn đồi cạnh đó.
Trong kiến trúc của Phật giáo, hình
tượng Phượng Hoàng được trang trí phổ biến ở đền chùa.
Con trống gọi là phượng (phụng) con
mái gọi là hoàng. Chim phượng biểu tượng cho phúc lộc, chim phượng biểu tượng
cho phúc lộc, chim hoàng là biểu tượng hoàng hậu nên trong các cung điện ở Huế
nơi dành cho hoàng hậu, công chúa thường trang trí trên nóc mái hình chim
hoàng. Trong biểu tượng trang trí với hình tượng người phụ nữ cao quý, người ta
tạo hình ảnh chim phượng bên cạnh hình tượng con rồng của Hoàng đế. Phượng
hoàng trong bộ tứ linh: long, lân, quy, phụng (phượng). Thỉnh thoảng trong kiến
trúc gỗ ta bắt gặp được trang trí trên các ô hộc, các đầu đuôi kèo, các tấm
chéo lòng kèo 2, 3 và được thể hiện dạng biến thể cúc hóa phượng.
8.
Con rồng/ Long (Dragon)
Là con thú linh, một loài động vật
khác thường, kỳ quái, và có nhiều chủ đề về huyền thoại. Ở các tác phẩm điêu
khắc cổ của người Việt từ đời Đinh, Lê đến Nguyễn đều có những phong cách tạo
hình khác nhau.
Là vật biểu tượng cho Thiên tử, vua
chúa (rồng năm móng) và thứ bậc quan lại (4 móng, 3 móng. Người xưa phân chia
giống rồng làm 3 loại chính
-
Con
Lung (Long) là giống có quyền lực nhất và thường cư ngụ ở trên trời.
-
Con
Ly có sừng và sống dưới biển.
-
Con
Giao mình phủ đầy vảy, sống ở đầm lầy và hang sâu trên núi.
Mô tả chung nhất là con Lung: đầu lạc
đà, sừng hưu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vảy cá chép, móng diều hâu,
lòng bàn chân của con hổ có 81 vảy cứng trên dọc sống lưng. Trên mỗi bờ mép có
râu dài lan tận cằm, là nơi có viên ngọc sáng. Nó có thể trèo cao, bay cao,
thách thức với mây trời, lặn xuống tận đáy sâu.
Con rồng đứng thứ 5 trong 12 con
giáp, biểu tượng của phương Đông, của mùa xuân. Trong các kiến trúc cổ con rồng
xuất hiện khắp nơi ở các cung điện của hoàng gia. Ở những ngôi nhà Rường thì
con rồng chỉ thể hiện dạng thấp hơn với dạng con Giao(3). Con Ly
thường trang trí ở các đuôi kèo – đặc biệt kèo cù, Huế - (kèo ba), hoặc xà cù.
Các kiểu thức gốc trúc, gốc mai hóa long, hóa giao được thể hiện phổ biến trong
nhà rường.
CÒN TIẾP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét