NHỮNG BÀI HỌC TỪ LỊCH
SỬ XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ CHO VIỆC BẢO TỒN PHỐ CỔ HÀ NỘI - Phó Đức Tùng
Đặt vấn đề:
Phố
cổ Hà Nội là một khu đô thị hấp dẫn, điều đó đã hẳn. Bằng chứng là nhiều người
muốn sống ở đây, mặc dù điều kiện sống rất chật chội. Giá đất ở đây cao. Và du
khách nào, cho dù trong hay ngoài nước tới Hà Nội cũng đều muốn thăm quan phố cổ,
chứ không ai nảy ra ý định tham quan khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính, Linh Đàm
hay Ciputra cả. Vấn đề là giá trị của phố cổ nằm ở đâu? Phần hữu hình, nhà cửa
kiến trúc kiểu phố Phái ngày nào thì nay đã biến hết rồi. Những kiến trúc hiện
tại không có gì đáng nói. Vì vậy, người ta đều cho rằng giá trị chính của phố cổ
là phi vật thể. Nhưng những giá trị phi vật thể đó là gì? Người ta liệt kê: lịch
sử, văn hóa, lễ hội, ẩm thực, hương ước, nghề thủ công v.v. Nhưng nếu xét kỹ,
thực ra đa số những giá trị này chỉ là hồi ức một thời. Hiện nay, gần như tất cả
những giá trị phi vật thể nói trên đều chỉ còn rất mờ nhạt, khó có thể nói
chúng là lý do cho sự hấp dẫn của khu phố này.
Trong bài này, chúng tôi lược lại lịch sử ngành xã hội và tâm lý học đô thị, để tìm lời giải đáp rõ ràng hơn về những giá trị phi vật thể của phố cổ Hà Nội cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác quy hoạch, bảo tồn. Cũng xin nhắc lại là đây chỉ là riêng góc nhìn xã hội học. Nó không thể giải thích mọi khúc mắc về vấn đề giá trị và bảo tồn phố cổ, mà chỉ làm rõ hơn một số khía cạnh thôi.
Trong bài này, chúng tôi lược lại lịch sử ngành xã hội và tâm lý học đô thị, để tìm lời giải đáp rõ ràng hơn về những giá trị phi vật thể của phố cổ Hà Nội cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác quy hoạch, bảo tồn. Cũng xin nhắc lại là đây chỉ là riêng góc nhìn xã hội học. Nó không thể giải thích mọi khúc mắc về vấn đề giá trị và bảo tồn phố cổ, mà chỉ làm rõ hơn một số khía cạnh thôi.
1- Trường phái
Chicago
Trường
phái Chicago có thể được coi là khởi điểm quan trọng đầu tiên của ngành xã hội
học đô thị, thịnh hành vào thời kỳ đầu thế kỷ 20. Khi đó, những giáo sư xã hội
học ở đại học Chicago, dẫn đầu là Park, Burgess và McKenzie, đã đưa ra một số luận
điểm cơ bản như sau: Giữa môi trường đô thị và hành vi xã hội có mối quan hệ
nhân quả trực tiếp (determinism), trong đó môi trường sẽ quyết định tới hành
vi, theo kiểu ở bầu thì dài, ở ống thì tròn. Một số kiến giải quan trọng của
trường phái này trong mối quan hệ từ môi trường tới đời sống xã hội là như sau:
a- Môi
trường tabula rasa (tức là đất trống) tại Chicago thời đầu thế kỷ là nguyên
nhân chính dẫn tới nhiều vấn đề bức xúc về xã hội. (ban đầu thành phố này chỉ
có khoảng 10.000 dân, trong chưa đầy nửa thế kỷ tăng thành gần 2 triệu, như vậy
đa số đô thị được xây dựng trên đất trống, không có phát triển lịch sử).
b- Sau
những rối loạn ban đầu, đô thị sẽ được định hình dần với một số cấu trúc đặc
trưng và dần đi vào ổn định. Quá trình hình thành cấu trúc đặc trưng này chủ
yếu diễn ra dưới tác động của cấu trúc giá đất. Giá đất là yếu tố môi trường
quan trọng nhất quyết định công năng sử dụng đất. Tại khu trung tâm thành phố,
giá đất lịch sử cao nhất dẫn đến một quá trình đẩy dần các tầng lớp dân cư ra
ngoài. Trong trung tâm chỉ còn những dịch vụ rất cao cấp, đắt tiền như cửa
hàng, nhà băng, bảo hiểm, quá xá cao cấp, khách sạn trụ lại được. Dân cư thì
chỉ còn một ít những người cực giàu. Dần dần khu trung tâm trở thành business
district. Những nhóm dân thu nhập thấp bị đẩy ra vành ngoài, nhưng sát khu
trung tâm. Nhóm này không thể rời xa khu trung tâm, vì họ phải kiếm ăn trong
trung tâm và không thể có nhiều thời gian cho đi lại. Do vòng thứ hai này vẫn
có giá đất cao nên những người nghèo đô thị sẽ phải sống rất chật chội trong
những khu dân cư ổ chuột. Cuối cùng là nhóm trung lưu thường sẽ bật ra vùng
ngoài cùng, dạng ngoại ô đô thị và tạo thành những gated community. ở đó họ có
được diện tích tương đối rộng để có được biệt thự riêng, có sự an toàn và
khoảng cách nhất định. Họ có thể được nhóm dân nghèo ở lớp giữa phục vụ mà
không phải chung sống với đám dân nghèo này. Họ lại cũng có thể vào trung tâm
làm việc, vì họ có tương đối nhiều thời gian và phương tiện đi lại tốt hơn.
Cấu
trúc xã hội đô thị đặc trưng với bố cục đồng tâm này được coi là quy luật phát
triển xã hội học đô thị. Khi quy hoạch đô thị, người ta sẽ tính đến quy luật
này để lường trước những vận động xã hội tương lai, từ đó đưa ra những giải
pháp quy hoạch phù hợp. Đặc biệt người ta cho rằng can thiệp giá đất sẽ là một
công cụ hữu hiệu của quy hoạch để điều phối các cấu trúc sử dụng và cấu trúc xã
hội theo ý muốn.
c-
Trong vành đai thứ hai, gồm nhiều tầng lớp dân nghèo đô thị, lại có thêm sự
phân hóa tiếp. Để tiện việc làm ăn sinh sống, họ thường tập hợp thành những
cộng đồng có cùng sắc tộc, văn hóa, dòng họ v.v. và có tổ chức cộng đồng tương
đối chặt chẽ. Từ đó họ tạo ra những nhóm tiểu văn hóa đô thị. (subculture
theory)
Bài học 1 rút ra cho phố cổ:
-
Mọi
sự phát triển đô thị từ nền đất trắng đều rất khó khăn, gắn liền với những mặt
trái của xã hội. Phải sau một thời gian dài đô thị mới ổn định được. Đô thị lịch
sử thường có một số giá trị xã hội tốt hơn đô thị mới.
-
Giá
đất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công năng, mật độ sử dụng và thành
phần dân cư. Muốn điều tiết cấu trúc thì cần điều tiết giá đất, nhưng việc điều
tiết này không phải dễ dàng.
-
Chỉ
có lớp trung lưu mới có thể chuyển ra ngoại ô. Dân nghèo thì luôn phải ở sát
trung tâm. Nhưng nhóm trung lưu thì có thể tự chuyển nếu họ muốn, nhà nước
không cần và không nên bao cấp cho nhóm này để làm một việc mà đằng nào họ cũng
muốn và có thể làm.
-
Những
nhóm dân nghèo trong trung tâm thường tụ tập thành từng cụm tiểu văn hóa, có thể
là cùng quê, cùng ngành nghề, cùng phường hội, cùng sắc tộc. Quan hệ trong những
cụm tiểu văn hóa này chặt chẽ hơn bình thường. Cấu trúc phố cổ Hà Nội cũng tuân
theo quy luật tương tự, với những phường hội truyền thống, thường là mỗi phường
có ngành nghề, quê quán, ông tổ, phong tục riêng. Việc bảo tồn, phát huy những
cụm tiểu văn hóa này sẽ tạo ra những nét độc đáo trong đô thị. Tuy nhiên cũng
phải hiểu rằng cấu trúc các cụm tiểu văn hóa này là một dạng cấu trúc đặc trưng
của các đô thị trung cổ, tiền hiện đại trên thế giới. Thứ nhất, nó không phải đặc
sản của riêng Hà Nội. Thứ hai, việc bảo tồn nó sẽ gặp những vấn đề thời đại.
Không phải ngẫu nhiên mà cấu trúc này ở nhiều đô thị lịch sử khác trên thế giới
mất dần đi.
2- Trường phái xác suất:
Trong
quá trình phát triển, xã hội học đô thị đã đi từ quan điểm nhân quả cứng sang
những quan hệ xác xuất. Festinger et al.1950; Whyte 1956
phát triển ý tưởng về các cộng đồng tiểu văn hóa của trường phái Chicago và cho
rằng nếu chỉ là giá đất thì khó giải thích tại sao có sự hình thành những cụm
tiểu văn hóa khác nhau trong vành đai hai, vì về nguyên lý thì giá đất tại vành
đai này ban đầu tương đối như nhau. Họ cho rằng một số đặc điểm môi trường nhất
định sẽ làm tăng xác suất xảy ra một số quan hệ, hành vi xã hội nhất định, từ
đó tăng xác xuất tụ tập của một nhóm người thường có dạng quan hệ hoặc hành vi
này. Gerald
Suttles, 1972 phân tích là với một số cấu trúc khu ở đặc biệt hấp dẫn đối
với một số nhóm đối tượng nhất địnhcó thể làm tăng xác suất lôi kéo được nhóm
này tới định cư. Những cộng đồng cư dân đó được gọi là cộng đồng được trù tính
trước – constrived community.
Bài học 2 cho phố cổ:
Lãnh đạo quận Hoàn kiếm từng phát
biểu: chúng tôi sẽ tìm ra cách sống của dân phố cổ và thiết kế cho họ những khu
tái định cư phù hợp. Đây chính là quan điểm về constrived community. Tuy nhiên,
ta cần biết khái niệm này chỉ áp dụng cho những cộng động với đặc điểm rất đơn
giản (chẳng
hạn gia đình có con nhỏ). Trong khi đó “dân phố cổ” là một khái niệm phức hợp.
Khó có công cụ nào cho phép mô tả loại dân này, và như vậy càng khó định nghĩa
môi trường nào có xác suất lôi kéo được những dân này.
3- Social capital
Sang
những năm 70, song song với những phát hiện của ngành nhân chủng học về giá trị
của những khu tự phát và ổ chuột, vành đai hai của các đô thị với những khu cư
dân nghèo lại được quan tâm đặc biệt trong xã hội học. Khái niệm Subculture một
lần nữa trở nên nổi bật, với mục đích nhìn nhận giá trị văn hóa đặc biệt của những
khu đô thị này. Vấn đề chúng là slum hay squatter trở thành chủ đề rất phụ.Tuy
nhiên có một sự thay đổi cơ bản giữa trọng tâm khái niệm subculture thời kỳ này
so với thời kỳ Chicago. Tại thời Chicago, Subculture nhằm chỉ những ốc đảo sắc
tộc, văn hóa khác nhau hình thành trong vành đai hai, do những nhóm nhập cư có
nguồn gốc khác nhau tạo nên. Trong khi đó, khái niệm subculture của những năm
70 lại nhấn mạnh đây là những tiểu đơn nguyên cơ bản cấu thành nên văn hóa, cấu
trúc xã hội đô thị.
Những
nhận thức về giá trị nhân văn, cộng đồng tại các khu dân cư tự phát được Pierre
Bourdieu tổng hợp thành lý thuyết vềtư bản xã hội - social capital hay tư bản biểu
tượng -symbolic
capital.
Theo ông thì một cộng đồng không chỉ là tổng của những cá thể, mà nó có giá trị,
sức mạnh riêng. Không những thế, cộng đồng mới là đơn nguyên tạo ra sự phát triển
đô thị, chứ không phải là các cá thể. Khi những cá thể có một nhu cầu nội tại
liên kết thành cộng đồng, xác định mình là một thành phần của cái chúng ta, thì
họ sẽ tạo ra một tiềm lực mới (*) có vai trò quan trọng với sự phát triển tương tự
như khả năng sinh ra giá trị thặng dư của mọi dạng tư bản truyền thống, nên gọi
là tư bản xã hội. Tất cả những gì dẫn đến sự gắn bó cộng đồng này: tên chung, lịch
sử, ngành nghề, dòng tộc, tín ngưỡng, quê hương, địa điểm, văn hóa v.v. đều là
những cấu hình tạo nên tư bản xã hội. Cho dù có thể lượng hóa chúng một cách
chính xác bằng tiền hay không thì một điều chắc chắn là chúng có giá trị tư bản.
Social capital hiện nay là một trong những chỉ số cơ bản dùng để đánh giá đô thị,
được tạo bởi rất nhiều giá trị phi vật thể khác nhau.
Có
điều là những giá trị phi vật thể này có quan hệ tương đối lỏng lẻo với môi trường.
Theo Michelson
1977 thì người ta không dễ dàng chủ động tạo ra được những giá trị phi
vật thể này một cách chắc chắn, thậm chí với xác suất cao, bằng những giải pháp
không gian, môi trường. Người ta chỉ có thể tạo ra những điều kiện cần để chúng
có thể nảy sinh. Vai trò của quy hoạch đô thị trong khía cạnh này là rất khiêm
tốn. Nhà quy hoạch không thể khẳng định sẽ tạo ra những giá trị phi vật thể
nào. Anh ta chỉ có thể đảm bảo những điều kiện cần để không gây ra những thảm họa
thôi. Những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, ngành quy hoạch đã phải bằng lòng với
nhận thức này. Việc của quy hoạch là cung cấp mảnh đất màu mỡ, tưới tiêu đầy đủ.
Còn thì hạt nào sẽ tự mọc thành cây đó. Nhà quy hoạch từ vai trò chúa trời trở
thành moderator. Sự tự chủ, tự quyết, tự phát triển của các cộng đồng được coi
là quan trọng nhất. Và cũng chính từ đó, người ta càng biết quý những nơi đã
hình thành được social capital một cách tự nhiên trong lịch sử và càng phải khẳng
định đó là những di sản cần phải được bảo tồn.
Bài học 3 cho phố cổ
-
Với
quá trình hình thành lâu đời, dưới dạng những phường hội truyền thống, quan hệ
dòng tộc, ngành nghề, tín ngưỡng, quê hương v.v. đã tạo ra tại khu phố cổ những
cụm tiểu văn hóa với mức tư bản xã hội cao. Chính mức tư bản cao này khiến cho
cộng đồng có sự gắn kết, bền vững và khả năng miễn dịch cao đối với những thay
đổi từ môi trường. Tư bản này cũng là một phần quan trọng đóng góp vào sự phát
triển và thành công về kinh tế của khu phố cổ.
-
Những
khu đô thị mới khó có thể có được tư bản xã hội này, vì mối quan hệ giữa không
gian, môi trường và yếu tố xã hội này rất lỏng lẻo. Cho dù cố gắng đến đâu, tạo
ra những môi trường tốt đến đâu thì cũng không thể trực tiếp tạo ra tư bản xã hội,
mà chỉ có thể hy vọng nó sẽ tự nảy sinh.
-
Tuy
nhiên, mối liên hệ tư bản xã hội này chủ yếu có giá trị nội tại đối với cộng đồng
dân cư ở đây. Nó giải thích phần nào mối liên hệ chặt chẽ giữa những cá nhân ở
đây và lý do tại sao họ không muốn di dời. Nhưng còn việc tại sao khu phố cổ lại
hấp dẫn du khách thì nó chỉ là một lý do yếu, tức là nếu cộng đồng yên ổn, phát
đạt, yêu thương nhau thì người ngoài cũng thấy đó là một không gian dễ chịu.
4- Community
liberated:
Barry Wellman 1979 Tổng kết lại những
câu hỏi về cộng đồng đô thị và cho rằng có 3 hiện tượng xảy ra đối với cộng
đồng dân cư trong quá trình đô thị hóa:
- Sự tan rã cộng đồng –
community lost: là
hiện tượng những mối quan hệ cộng đồng chặt chẽ xưa kia như gia đình, chòm xóm
ngày một trở nên lỏng lẻo. Con người trở nên cô đơn, không còn những chỗ dựa
cộng đồng. Cũng có thể nói là social capital bị mất dần.
- Sự bảo tồn cộng đồng –
community saved: Đó
là hiện tượng đặc biệt hay gặp trong những cộng đồng nghèo, là vì sự sống còn,
họ buộc phải cấu kết lại với nhau, tạo ra một dạng làng trong lòng đô thị. Đây
cũng là những giá trị phi vật thể của những cụm dân cư này dưới dạng social
capital truyền thống mà ta vừa bàn ở trên. Tuy nhiên, giá trị co cụm này là con
dao hai lưỡi. Một mặt có thể nhìn nó như những giá trị tích cực, nhưng cũng có
thể vì nó mà những cộng đồng này chịu tiếng xấu về sự bảo thủ trì trệ, lạc hậu
mà Lewis đã nhấn mạnh.
- Tính phi cộng đồng –
community liberated: Đó
là hiệu ứng khi một khu đô thị rất đa dạng và mật độ cao thì tuy những cộng
đồng sơ cấp cổ truyền đã tan rã, nhưng lại có cơ hội tạo ra muôn hình vạn trạng
những dạng cộng đồng thứ cấp, hội hè bè đảng, những người cùng sở thích, cùng
tín ngưỡng v.v. Tuy mỗi liên kết này chỉ có tác dụng trong một số hoàn cảnh
nhất định, nhưng rất nhiều mối liên kết đó thì lại tạo ra một social capital
rất vững chắc và có giá trị. Đây mới là giá trị phi vật thể lâu bền của xã hội
đô thị thực thụ.(Alejandro Portes và trường phái Wisconsin) Những mạng lưới quan hệ cộng đồng trong đô thị có thể
vượt ra xa khỏi phạm vi ranh giới một tiểu khu. Mạng lưới càng rộng, càng dày,
càng đa dạng thì giá trị tư bản xã hội càng cao. Những mạng lưới khác nhau này
khiến cho những nhóm người thuộc các thành phần rất khác nhau có thể được tập
hợp để giải quyết những vấn đề có liên quan đến rất nhiều cá thể, chẳng hạn
người ta có thể tập chung cho một giờ tắt điện vì trái đất xanh. Những xã hội
có quan hệ mạng đa dạng sẽ có tinh thần làm chủ, ý thức chính trị cao.
Bài học 4 cho phố cổ:
-
Lối
liên kết cổ truyền: “làng trong phố” với những liên kết sơ cấp chặt chẽ tuy
cũng là một dạng social capital nhưng nó là dạng thức của một thời quá khứ. Một
mặt, nó làm tăng năng lực chống chịu, phát triển của một cộng đồng, nhưng đồng
thời, nó lại tạo ra vỏ bọc, rào cản đối với muôn vàn khả năng kết mạng thứ cấp
khác, khiến cho cộng đồng có thể bị cô lập. Tư bản xã hội thực sự của thời đại
mới là khả năng kết mạng thứ cấp đa dạng, vượt ranh giới địa lý. Nếu khu phố cổ
giữ được sự hấp dẫn đặc biệt, nhất là cả đối với người ngoài, thì rất nhiều khả
năng là nó đã tạo ra được hệ thống kết mạng thứ cấp rất phong phú mà những khu phố
khác không hoặc chưa thể có được. Muốn nghiên cứu giá trị phi vật thể thực sự
của khu phố cổ, cần điều tra tình hình nối mạng thứ cấp này, chứ không phải tập
trung vào những giá trị làng xã quá khứ.
-
Trong
thời đại công nghệ thông tin ngày nay, khả năng kết mạng này không nhất thiết
phụ thuộc vào vị trí địa lý. Tuy nhiên, sự tập trung đông dân, với đa dạng
ngành nghề, đa dạng dịch vụ và thành phần phức tạp tại một khu vực nhỏ làm tăng xác suất va chạm và kết nối thứ cấp một cách đáng kể. Mật độ dân cư cao, sự
phức tạp và đa dạng thành phần trong khu phố cổ do đó là đặc điểm môi trường
quan trọng nhất có khả nghi liên quan tới năng lực kết mạng do đó là yếu tố
hàng đầu cần bảo tồn. Vì thế, những đề án di dân quy mô lớn là trái với lợi ích
của bảo tồn.
5- Không gian vi mô tối ưu
cho mọi người – Thiết kế môi trường và tâm lý học đô thị
Có một hiện tượng nữa mà Harvey Molotch, David Harvey và Neil Smith tập trung nghiên cứu, đó là khi tầng lớp trung lưu dời khỏi
trung tâm ra ngoại ô, họ mang theo nguồn thu thuế và chi tiêu chính ra những
vùng này. Lớp trung lưu làm việc, có thu nhập chủ yếu nhờ môi trường đô thị
trong trung tâm, nhưng lại mang lợi nhuận ra vun đắp cho những khu biệt thự ngoại
ô. Trong khi đó những cộng đồng dân cư nội thành, là những người cung cấp dịch
vụ hàng ngày, giữ lửa cho khu trung tâm, thì ngày càng lâm vào tình trạng nghèo
đói, do điều kiện sống chật chội, đắt đỏ. Nếu cứ để tiếp diễn như vậy, khu
trung tâm sẽ dần bị bỏ rơi, chết dần, như đã xảy ra ở nhiều nơi. Trong khi đó
những khu biệt thự bên ngoài lại không đủ tiêu chí để thay thế cho khu trung
tâm. Từ đó mà giá trị tổng thể của đô thị sẽ bị giảm sút. Một giải pháp có thể
là cần phải có biện pháp bao cấp, chia sẻ những lợi nhuận xã hội cho các cộng
đồng dân cư nghèo trong trung tâm. Tuy nhiên, giải pháp này không phải dễ thành
công. Khi nhà nước bỏ tiền vào tu sửa, nâng cấp những khu dân cư nghèo trong
nội thành, giá đất sẽ cao lên, giá sinh hoạt cũng cao lên. Kết quả là những
người nghèo này tuy được hưởng cái lợi ban đầu, nhưng sau sẽ dần bị đẩy khỏi
khu vực đó, đồng nghĩa với việc bị cắt khỏi nguồn thu nhập hàng ngày. Còn nếu
nhà nước giải tỏa những khu ổ chuột gần trung tâm, dời họ tới những khu tái
định cư bên ngoài, thì cũng có tác dụng tương tự, nghĩa là tách họ khỏi nguồn
thu nhập.
Sau
những phát hiện của nhóm Molotch, các nhà xã hội học đô thị cho rằng thế thì chẳng
nên rời ai ra khỏi trung tâm cả. Người nghèo không thể ra, vì ra thì chết. Người
giàu cũng không thể ra, vì ra thì chảy máu tư bản. Vậy thì bài toán là làm sao
để khu trung tâm trở nên hấp dẫn cho mọi đối tượng, mọi thành phần, và làm sao
để họ chung sống hòa bình được với nhau. Họ cho rằng nếu nghiên cứu và thiết kế
ra những môi trường đô thị tốt hơn, tối ưu hơn thì mọi người sẽ cùng sống với
nhau như vậy được. Còn nếu đô thị phát triển tới mức nào đó, không thể dồn tất
vào một trung tâm, thì sẽ thành lập những trung tâm khác, với cấu trúc đa thành
phần tương tự. Từ đó có mô hình đô thị đa tâm.
Năm
1970, một số chuyên gia liên ngành ở bắc mỹ tập hợp thành một nhóm chuyên
nghiên cứu về thiết kế môi trường -Environmental Design Research Association
(EDRA). Tổ chức này xuất bản tạp chí Môi trường và hành vi, (Environment and Behavior) rất có uy tín,
và đã khuyến khích hàng loạt nghiên cứu trong lĩnh vực này suốt thập kỷ 70. Một
trong những dòng chính là của các nhà tâm lý học môi trường. (Proshansky 1970;
Toepfer 1972; Ittelson 1974; Heimstra, McFarling 1974; Gifford 1987; Bonnes,
Secchiaroli 1995) Ngoài ra còn có bên địa lý
(Rapoport 1977) và xã hội học. (Michelson 1970) EDRA đã làm một cuốn tổng
kết những kết quả nghiên cứu của thập kỷ 70. (Moore et al. 1985) Ngoài ra có cuốn
sổ tay về tâm lý học môi trường (Stokols and Altman 1987) và cuốn sổ tay về xã
hội học môi trường (Dunlap and Michelson 2002), là những cuốn sách liệt kê những
đóng góp của ngành xã hội học trong thời gian đó vào lĩnh vực thiết kế đô thị.
Ở
Châu Âu, đặc biệt các nước ở Scandinavi, Hà Lan, nghiên cứu những vấn đề rất cụ
thể, thực tiễn xem một số cấu trúc không gian đô thị cụ thể có hiệu quả như thế
nào và đưa ra nhiều bài học kinh nghiệm trong cả lĩnh vực nhà ở, không gian
công cộng, môi trường làm việc v.v. (Thiberg 1985).
Càng
ngày, người ta càng ít tin tưởng hơn vào vai trò của những đại cấu trúc như đô
thị, khu đô thị vào cuộc sống xã hội của người dân. Thay vì nghiên cứu những mô
hình cấu trúc tổng thể, người ta tìm cách tối ưu hóa những không gian nhỏ nhất,
cho từng hoạt động, từng nhu cầu xã hội cụ thể. Hàng nghìn những cải tiến nho
nhỏ sẽ có hiệu quả tốt hơn là một thay đổi vĩ mô. Michelson, Van Vliet 2002
Bài học 5 cho phố cổ:
-
Quan
điểm tâm lý học môi trường cho rằng môi trường tốt sẽ dẫn tới hành vi tốt, con
người tốt hơn, ngược lại môi trường xấu sẽ khiến con người bị biến thái, hành
vi sai lệch. Nếu cho rằng về nguyên tắc không nên di dân phố cổ, thì nỗ lực bảo
tồn và phát huy phố cổ sẽ tập trung ở chỗ làm sao để khiến cho khu phố này tốt
hơn, đáng sống hơn, hấp dẫn hơn, và làm sao giảm thiểu được những bức xúc hiện
nay trong khu phố này. Có rất nhiều tài liệu, kinh nghiệm cụ thể về lĩnh vực
này.
-
Trong
lĩnh vực quy hoạch, đặc biệt quan trọng là các nghiên cứu của Christopher
Alexander về cấu trúc ngữ pháp của không gian đô thị. Qua quan sát, tổng kết những
không gian thực tế ở đô thị, ông rút ra được hơn 250 mẫu không gian nhỏ, tối ưu
cho những hoạt động, tâm lý của con người. Tất nhiên đối với phố cổ, với người
dân đô thị Việt nam, có lẽ cần một nghiên cứu tương tự, để rút ra những bài học
kinh nghiệm mang tính địa phương. Trong nghiên cứu của mình, Ch. Alexander đã
rút ra rất nhiều kinh nghiệm thực tiễn từ việc nghiên cứu các đô thị lịch sử từ
thời trung cổ. Do không gian sống ở những đô thị này rất chật hẹp, và lịch sử
phát triển lại rất lâu đời, nên kết tinh được những giải pháp tối giản. Tương tự
như vậy, phố cổ Hà Nội có thể là một cuốn sách với những công thức không gian tối
giản của dân đô thị Việt Nam đã được kết tinh từ nhiều thế hệ. Đây cũng là một
giá trị phi vật thể rất quan trọng của khu phố cổ, dưới góc độ thiết kế môi trường
và tâm lý học đô thị.
-
Theo
như nhận thức chung của thế giới, những can thiệp vào phố cổ nên là rất nhiều dự
án tối ưu hóa nho nhỏ, thay vì những biến động lớn kiểu như di dời một lúc 40%
dân số.
6- Chủ nghĩa cấu trúc
(structuralism)
Một
dòng khác trong xã hội học đô thị thì không cho rằng môi trường đô thị, dù vĩ
mô hay vi mô, có thể ảnh hưởng nhiều tới hành vi, hoạt động xã hội, nhất là khó
có thể ảnh hưởng tích cực. Ngược lại, con người và hành vi của họ mới là yếu tố
chủ động. Một môi trường không phù hợp ban đầu có thể được biến đổi thành tốt.
Ngược lại một môi trường rất tốt nếu không có sự quản lý đúng đắn có thể bị hỏng.
Ở đây, vai trò của nhà quy hoạch còn bị giảm nữa. Không những anh ta không nên
quyết định về những cấu trúc không gian lớn, mà kể cả không gian nhỏ li ti cũng
không khiến anh ta làm. Việc anh ta cần làm là đảm bảo một hành lang tự do cho
người dân tự chủ, tự xây dựng lấy môi trường của họ. (Firey 1947).
Một
số học giả khác thì không cho rằng cá thể là những đơn nguyên có vai trò tạo
tác trong môi trường đô thị, mà là những nhóm lợi ích, những thế lực xã hội. (Form
1954; Long 1958)Trường phái này có thể gọi là tân marxist, với quan điểm
là cấu trúc giai cấp trong xã hội, trình độ sản xuất, phương thức sản xuất v.v.
sẽ quyết định tới cấu trúc không gian và môi trường. Sự điều phối, thương lượng
giữa các thế lực này để đưa ra một giải pháp có lợi cho các bên là nhiệm vụ
chính của quy hoạch. Những thế lực này thường xuyên thay đổi theo thời gian và
tùy vào tính chất của sự việc. Vì thế việc phân tích các bên liên quan
(stakeholder audit) là một công cụ chính của quy hoạch trong mỗi dự án.
Sau này, Molotch đưa ra những kết
luận tương đối tiêu cực, đó là mọi con đường phát triển đô thị đều bị một cấu
trúc lợi ích băng đảng khống chế. Nhóm lợi ích này gọi là “cỗ máy phát triển đô
thị” và luôn đưa ra những mô hình phát triển rất đặc trưng, với kết quả là
người giàu ngày càng giàu hơn, và khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Phát
triển đô thị do đó không bao giờ là phát triển cho mọi người, mà luôn chỉ cho
một nhóm nhỏ. (2007)
Vì
thế, vai trò của quy hoạch luôn phải là đứng về phía cộng đồng, chống lại các
băng nhóm lợi ích thì mới mong tạo ra tiến bộ cho cộng đồng, một nhiệm vụ vô
cùng nan giải.
Bài học 6 cho phố cổ:
-
Theo
quan điểm chủ nghĩa cấu trúc thì giá trị chính của phố cổ sẽ nằm ở hành vi, chứ
không phải là ở cấu trúc không gian. Cấu trúc không gian chẳng qua là sản phẩm
của hành vi. Qua nghiên cứu không gian, người ta có thể rút ra những kết luận về
hành vi.
-
Quan
trọng nhất trong việc nghiên cứu hành vi là việc phân tích các thế lực và tương
quan lực lượng trong xã hội cũng như giải mã động cơ của họ. Tại sao phố cổ hấp
dẫn, hấp dẫn đối với ai, ai là người hưởng lợi. Mặt khác tại sao phố cổ lại
không hấp dẫn đối với một số người khác, họ bị thiệt hại thế nào.
-
Tương
tự thì đối với một dự án như di dân phố cổ, việc quan trọng cũng không phải là
lợi hay hại, mà phải phân tích kỹ xem ai được lợi, ai bị hại. Theo dự đoán của
Molotch thì đằng sau mọi dự án lớn, ta sẽ thấy người được hưởng lợi là một thế
lực nhỏ, còn người bị hại sẽ là số đông. Cụ thể cấu trúc nhóm hưởng lợi này gồm
những thành phần nào, Molotch cũng đã có nghiên cứu rõ./.
BÀI TIẾP THEO CỦA BÀI NÀY LÀ :
>>> Khía cạnh nhân chủng học trong câu chuyện giãn dân phố cổ - TS.KTS Phó Đức Tùng
>>> Khía cạnh nhân chủng học trong câu chuyện giãn dân phố cổ - TS.KTS Phó Đức Tùng
Dưng mà bài này được đăng trên Tạp chí Người Đô thị thi sau đó đã bị gỡ, chắc là do có 1 đoạn: " Trong đám “dân phố cổ” đang sống chui rúc đó có 2 loại người...
Còn nhóm thứ hai là nhóm “nhảy dù”, vốn gốc quê mùa tứ chiếng, hỗn tạp, bần cố nông vô sản, nổi dậy cướp chính quyền. Cái duy nhất mà họ từng có và mất là gông cùm xiềng xích. Nhóm này vốn quen sống bần hàn, ít nhu cầu, không có các thói quen, văn hóa đô thị. Mặt khác do nhảy dù chiếm nhà chiếm đất người ta nên được mảnh nào mừng mảnh đó. Chiếm được một chỗ thì lôi kéo cả họ hàng từ quê ra. Trong nhóm này, nhiều người không có giấy tờ hợp pháp và mang nhiều đặc điểm của cư dân ổ chuột. Họ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phố cổ như một khu ổ chuột ngày nay."
(*) Khi những cá thể có một nhu cầu nội tại liên kết thành cộng đồng, xác định mình là một thành phần của cái chúng ta, thì họ sẽ tạo ra một tiềm lực mới, đọc câu này liên tưởng đến cảnh ông chủ Mobi Air ở Singapore bị cộng đồng mạng kêu gọi tẩy chay lên án, họ tạo ra một khả năng có thể ép những kẻ dự định lừa đảo có thể sẽ suy nghĩ lại hành vi tương lai của mình với khả năng tác động ngược lại vào bản thân>>> Tuần Việt Nam: Quyền lực thứ 5 nhìn từ vụ lừa bán Iphone ở Singapore
(*) Khi những cá thể có một nhu cầu nội tại liên kết thành cộng đồng, xác định mình là một thành phần của cái chúng ta, thì họ sẽ tạo ra một tiềm lực mới, đọc câu này liên tưởng đến cảnh ông chủ Mobi Air ở Singapore bị cộng đồng mạng kêu gọi tẩy chay lên án, họ tạo ra một khả năng có thể ép những kẻ dự định lừa đảo có thể sẽ suy nghĩ lại hành vi tương lai của mình với khả năng tác động ngược lại vào bản thân>>> Tuần Việt Nam: Quyền lực thứ 5 nhìn từ vụ lừa bán Iphone ở Singapore
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét