Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

Trí thức thời nay- đằng sau thói háo danh là tình trạng tha hóa kéo dài




Bề ngoài, giữa thanh thiên bạch nhật, ta khép nép một bề. Khép nép mà vẫn ấm ức. Nên khi quay về tính chuyện trong nhà với nhau, ta lại hết sức hào phóng trong việc đề cao mình. Tự đề cao như một sự phục thù lại, nó là một biểu hiện của phép thắng lợi tinh thần mà Lỗ Tấn đã gọi ra khi tả chú A.Q. Thói háo danh không chỉ là chuỵện nhỏ không đáng chê trách, mà còn có vẻ như phương thức cần thiết để giúp vào việc níu chặt lấy một niềm tin mong manh về bản thân.


Bước ngoặt trong việc tàn phá giới đại học cũ

 và thay thế bằng một lớp trí thức mới
     Nhìn vào giáo dục những  năm hoà bình 1954-65, cũng như thời chống Mỹ,  thấy số năm học ở phổ thông ở đại học có thể tăng, một số thầy giáo được đi học ở  Nga, Trung quốc và các nước Đông Âu... Nhưng về căn bản, cái hồn cốt của giáo dục vẫn là chắp vá, tạm bợ, không có khả năng hội nhập với giáo dục thế giới. Các bằng cấp của chúng ta chưa bao giờ được đông đảo các nền giáo dục khác công nhận là một bằng chứng về tình trạng cô lập kéo dài đó. 
       Đánh dấu bước ngoặt trong ngành giáo dục cũng như trong quan niệm về giới trí thức là năm 1958 và mấy năm sau. 
      Chịu ảnh hưởng của cuộc đấu tranh  chống phái hữu ở Trung quốc, và cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn bên Văn nghệ, giới Đại học trước tiên là khu vực khoa học xã hội đã có một cuộc “thay máu”. 
     Do tự bộc lộ chính kiến riêng, các giáo sư nòng cốt như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trương Tửu và lớp trẻ đầy tài năng như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc... bị cho thôi việc hoặc chuyển sang các viện nghiên cứu thực tế là chỉ ngồi chơi xơi nước hoặc làm những việc không quan trọng như dịch tài liệu.
     Lớp người thay thế được chọn ra chủ yếu theo tiêu chuẩn chính trị mục đích là giữ sao cho đại học – và các ngành học thuật tương lai – trong tầm kiểm soát.
(Có thể tham khảo thêm những đảo lộn của giới Đại học kỳ này qua bài  Hoàng Hữu Yên Một thời để nhớ (Hồi ức) Talawas 27.8.2008 - Chú thích của VTN 31-8-2014)
     
      Ban đầu nhiều người trong số mới lên này nhũn nhặn, tự nhận là mình chỉ đóng vai trò thay thế, không đòi hỏi gì về chức danh, vui vẻ với đồng lương bé mọn mà vẫn chăm chỉ làm việc, và trong thực tế họ đã đóng vai trò thúc đẩy khoa học tiến tới.  
    Tuy nhiên đến khoảng 1973-74 thì có một tình hình mới.
     Trong thực tế giảng dạy và nghiên cứu, nhu cầu chuẩn hoá dù không được đặt ra chính thức, song vẫn như một xu thế mà bất cứ nền giáo dục nào cũng phải hướng tới. Ít ra là bề ngoài ta phải có được hình thức cho dễ coi một chút!
     Lại thêm những khía cạnh mới trong tình hình xã hội đòi hỏi điều đó. Cuộc chiến tranh giải phóng bước vào một giai đoạn kết thúc. 
     Có một phương án sau này không xảy ra nhưng lúc đó được tính tới, đó là những cuộc đối thoại giữa hai xã hội miền bắc và miền nam. Trong cuộc đối thoại đó, không thể bỏ qua tiếng nói của giới trí thức.
     Ta cần phải có những giáo sư của ta những trí thức của ta chứ!
     Phải chứng minh cho phía bên kia thấy rõ là miền bắc không chỉ biết làm chiến tranh mà còn biết làm học thuật. Và thế là nhu cầu phong cấp phong chức nổi lên, nó là đòi hỏi từ hai phía cả từ bên trong bản thân giới học thuật lẫn nhu cầu của xã hội.
      Cái cách của xã hội ta xưa nay vẫn vậy. Thấy cần là làm, không đủ điều kiện cũng làm, làm bất kể phép tắc. Và từ chỗ ban đầu còn chặt chẽ nghiêm túc, sự mệt mỏi và nghiệp dư trong quản lý khiến cho công việc càng về sau càng được tiến hành qua loa dễ dãi,” chín bỏ làm mười mà có khi chỉ năm sáu thôi cũng đã coi là mười. “
    Những người cơ hội kém cỏi chỉ chờ có thế. 
    Họ “lẻn” ngay vào những chỗ đất trống (tôi mượn chữ lẻn từ câu Kiều ‘Đẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào” ) và từ chỗ xấu hổ biết điều quay ra chủ động thao túng tình hình.
    Một trong những trục cột của đạo Nho là thuyết chính danh ”quân quân—thần thần - phụ phụ- tử tử”. Tức là người nào phải ra người ấy vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con.
     Nhưng từ xã hội VN cổ truyền, cái thuyết chính danh ấy đã chẳng xâm nhập nổi để làm thay đổi được ý nghĩ của bất cứ ai, nữa là hôm nay.
     Trong phạm vi toàn xã hội hiện tượng danh thực tách rời ngày càng rõ ràng đến mức không ai muốn che đậy nữa. Đục nước béo cò, xã hội càng nhiều bóng tối thì lớp người thiếu học vấn mà thừa mưu mẹo càng dễ lập lờ đánh lận con đen. Còn như những người tài năng thì không ai muốn cố gắng.
     Trong giới ai cũng biết một giáo sư đại học hàng đầu, ông Đ., mấy chục năm nay toàn soạn bài và viết báo chay. Tức là không bao giờ để công học và tự mình đọc lấy tài liệu nước ngoài. Có gì cần, ông đã yêu cầu phòng tư liệu khoa thuê dịch rồi cứ dựa vào đấy mà xào xáo. Được cái tính nết chăm chỉ nên lên đến giáo sư đầu ngành và đầu sách in ra đã lên tới con số dăm bẩy chục cuốn. Nghe nói lúc thân mật ông từng truyền kinh nghiệm cho đám đi sau:
    --Tội quái gì mà phải học ngoại ngữ ? Để thời giờ mà viết là hơn, giờ ai bằng mình nào!
   Phải nói loại giáo sư đại học như thế này không có ở bất cứ nước nào trên thế giới, trừ nước ta.   
   Chung quanh câu chuyện dễ dãi phi chuẩn mực trong ban phát chức tước  Lịch triều hiến chương loại chí  ở phần Quan  chức chí  của  Phan Huy Chú từng có đoạn viết: 
   “Tước cấp ở đời Lê rất là quan trọng. Từ đời Hồng Đức đặt quy chế về sau  các đời theo nhau chưa từng cho lạm bao giờ [...]. Gần đây, nhuận triều Tây Sơn  phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ lính đẩy xe cũng đều trao cho tước hầu tước bá.

Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể được không?”(11)
    Điều này cũng đúng với việc ban phát các chức tước danh vị trong khoa học, tức là cái mầm gây ra nhiễu loạn, thời nay.
   
Khi đã chạy theo  hư danh, người trí thức

đã bị  làm hỏng  hoàn toàn     
   Cách đây khoảng hai chục năm, tôi đọc được trên tấm cạc của anh C. một người quen, bên cạnh tên tuổi có ghi thêm các chức danh sau đây, mỗi chức danh một dòng, tổng cộng chín dòng.
 dòng 1:Nghề anh học ở đại học
 dòng 2: Nghề anh đang làm
 dòng 3 : Chủ tịch Hội....
 dòng 4: Tổng biên tập báo...
 dòng 5: Đại biểu Quốc hội ( năm đó anh đang là một ông nghị)
 dòng 6: Thành viên Uỷ ban xxx của Quốc hội
 
 Ngoài ra là ba chức danh nữa, tôi không nhớ xuể nhưng hình như là các loại giải thưởng được trao tặng.
   Ban đầu tôi cũng thấy buồn cười, nhưng sau thì thông cảm. 
   Hồi ấy anh bạn tôi sau những nỗ lực bền bỉ, từ công việc chuyên môn  được ngắm nghía để cơ cấu vào giới quan chức. 
    Lớn lên từ đám học sinh Hà Nội rồi thành cán bộ nhà nước, chúng tôi đã nếm đủ những đau xót của một bọn người mang tiếng là người làm nghề sáng tạo trong xã hội mà chỉ công nhân nông dân mới được coi là giá trị.

-- Vâng chúng tôi đã biết lao động chân tay là giá trị rồi. Nhưng chúng tôi cũng có giá trị của chúng tôi chứ.

-- Không được, anh không được biết hơn mọi người! 

    Luôn luôn chúng tôi cảm thấy mình có tội vì đã coi trọng việc học. 
    Đó là về tinh thần. Còn vật chất thì sao? Bao giờ đến lượt được mua xe đạp, bao giờ đến lượt được tăng lương, những việc đó chờ đã mỏi cổ, nói chi đến việc có được một cái nhà, xoay được một chuyến đi ngoại quốc? 
     Không ai tuyên bố chính thức, nhưng tất cả thực tế hình như đồng thanh rót vào tai mình, chỉ có một cách hết nghèo hết khổ là lọt vào tầm mắt của lãnh đạo.
      Trở thành quan chức thì tốt nhất. Nếu không thì cũng phải có được những chức danh trong nghề, nó là cái dấu hiệu đánh dấu mình. Dù có phải luồn cúi chạy chọt một chút song vì cuộc sống bản thân và gia đình, hãy ráng mà giành lấy cho mình những danh vị cần thiết. 
      Tối mắt tối mũi vì quản lý, các ông phụ trách có nhớ được ai với ai. May mà họ vẫn buộc phải giữ lấy cái tiếng là tôn trọng khoa học, là biết lắng nghe chuyên môn. Cách họ thường làm là dựa vào chức danh mà đối xử. Người có chức tước oai một thì người đứng ra phong tước cho kẻ khác oai mười, xưa nay ai mà chẳng biết?! 
      Nên nhớ ngoài quyền lợi vật chất, những chức danh cũng là điều kiện để người ta làm chuyên môn giỏi.
       Có chức danh anh mới dễ xin được kinh phí cho đề tài của mình. Dễ được tiêu tiền. Dễ được chọn người cộng tác.
       Không nói đâu xa, ngay trong cái nghề văn chương của tôi, chức danh cũng giúp ích nhiều lắm. 
        Ngay trong chiến tranh, Hội nhà văn vẫn được sứ quán Pháp ở Hà Nội tặng cho nhiều cuốn sách vừa in ráo mực bên Pháp. Nhưng sách về thì ông tổng thư ký Nguyễn Đình Thi nói ngay với bà Huệ vợ nhà văn Bùi Hiển giữ thư viện là cất ngay vào kho, chỉ ai trong Ban thường vụ Hội mới được đọc.
      Không phải ông Thi tùy tiện làm vậy mà đó là lệnh của trên, mãi ông Tố Hữu, Tổng thư ký Hội nhà văn chỉ chấp hành lệnh trên. 
      Nói của đáng tội hồi ấy với nhiều hội viên Hội nhà văn, giá có cho đọc cũng đâu có biết tiếng Pháp mà đọc.
      Những những anh em có biết thì hận. Muốn trau dồi nghề nghiệp – nghĩa là  muốn tử tế hơn -- cũng không được. Xã hội không cần. Tốt đâm ra khó, còn hư thì tha hồ, khéo xin một chút là trên tha ngay.
      Trên đây là câu chuyện của những năm chiến tranh. 
      Tôi và các bạn cùng lứa lớn lên vào một giai đoạn thực dụng hơn. Sách vở thì chúng tôi không thật cần lắm, nhưng nhiều nhu cầu khác lại xuất hiện. Mà trước tiên là một chỗ để gia đình chui ra chui vào. 
      Tôi đã nói là cần thông cảm với anh bạn C. với tấm cạc chín chức danh của mình. Vì hồi ấy sau khi ghé chân quan trường đoàn thể , anh đang lo xin đất làm nhà.
      Đến đây lại phải kể dài dòng thêm một chút.  
    
     Một là tuy biết trên nguyên tắc trước sau làm quan sẽ sớm được chia nhà, nhưng trong thực tế không đơn giản ô tô ma tích có ghế là có nhà ngay. Muốn được miếng ngon miếng sốt, còn phải cạnh tranh chán với các vị quan khác thì mới được như ý. 
     Mọi loại quan đều như vậy. Huống chi quan trong văn nghệ là do dân cử, có khi chỉ ngồi được vài năm.
      Vốn tính thực dụng, anh bạn tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Ngồi chưa ấm ghế  anh bắt tay ngay vào việc xin đất. Mà anh làm thật khôn ngoan. Người khác hách dịch công khai huy động cả cơ quan lo chuyện riêng cho mình. Còn C. thì hoàn toàn lặng lẽ tự mình làm hết. Lặng lẽ viết công văn. Lặng lẽ đóng dấu. Lặng lẽ đến các nơi có liên quan. 
      Chính tấm cạc chín dòng của C mà tôi dẫn ra ở trên xuất hiện trong thời gian đó. Tôi thầm dự đoán anh bạn đã phải loay hoay rất nhiều trong việc soạn ra danh sách các chức vụ để không quên một chức nào.
     Đây là tôi nói loại người còn đang hiền lành, nhân biết cái danh có thể đổi ra tiền thì lợi dụng nó. 
      Lại còn loại người thứ hai là điên cuồng săn đuổi danh vị, sau đó mượn danh vị để tiến thân, ngày càng leo mãi lên trong hệ thống quan chức, dù chỉ là trong phạm vi quan chức chuyên môn. So với họ, anh C. của tôi còn tử tế chán.
      Nhưng cả loại người này nưã cũng không phải là “ từ trên trời rơi xuống”. Mà họ cũng là sản phẩm của một sự thích ứng—thích ứng với cách đánh giá người và dùng người của xã hội.
      Nhưng đây là vấn đề thuộc về khoa xã hội học quan chức mà tôi chưa có dịp nghiên cứu.
     Trong bài này, trong chừng mực nào đó, tôi đã mở rộng ra nói về thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng mà người mình thường mắc, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh hội nhập nửa vời với thế giới bệnh lại trầm trọng hơn. Đây là những quan sát bước đầu, cần sự chia sẻ phản bác của các đồng nghiệp.
     Riêng phần về căn bệnh quý hóa này ở giới trí thức, thì xin bảo đảm là có phần chắc chắn hơn, nó là kinh nghiệm bốn mươi năm sống trong giới của tôi, nên nhân có bài của Đặng Hữu Phúc, tôi mới mạnh dạn mang kể. Hai ý chốt lại cuối cùng:
    Một là hãy thông cảm với những người trong cuộc. Không phải người trí thức Việt Nam sinh ra đã ham chức danh như chúng ta thấy. Hoàn cảnh đẩy họ đến chỗ phải làm vậy.
    Hai là bệnh khó chữa lắm. Vì nó chỉ là một biểu hiện của tình trạng tha hóa trí thức cần được nghiên cứu trên quy mô rộng hơn và có tầm khái quát hơn. 

(Bài đăng đã bị rút bớt lại, có thể đọc bản đầy đủ hơn tại blog Vương Trí Nhàn )

BÀI LIÊN QUAN:

>>> Tìm hiểu chính sách đào tạo lớp trí thức mới của nhà nước Nga - Xô viết để hiểu trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét