… Bề ngoài, giữa thanh thiên bạch nhật, ta
khép nép một bề. Khép nép mà vẫn ấm ức. Nên khi quay về tính chuyện trong nhà với
nhau, ta lại hết sức hào phóng trong việc đề cao mình. Tự đề cao như một sự phục
thù lại, nó là một biểu hiện của phép thắng lợi tinh thần mà Lỗ Tấn đã gọi ra
khi tả chú A.Q. Thói háo
danh không chỉ là chuỵện nhỏ không đáng chê trách, mà còn có vẻ như phương thức
cần thiết để giúp vào việc níu chặt lấy một niềm tin mong manh về bản thân.
Bước ngoặt trong việc tàn phá giới
đại học cũ
và thay thế bằng một lớp trí
thức mới
Nhìn vào
giáo dục những năm hoà bình 1954-65, cũng như thời chống Mỹ, thấy
số năm học ở phổ thông ở đại học có thể tăng, một số thầy giáo được đi học
ở Nga, Trung quốc và các nước Đông Âu... Nhưng về căn bản, cái hồn cốt
của giáo dục vẫn là chắp vá, tạm bợ, không có khả năng hội nhập với giáo dục
thế giới. Các bằng cấp của chúng ta chưa bao giờ được đông đảo các nền giáo dục
khác công nhận là một bằng chứng về tình trạng cô lập kéo dài đó.
Đánh dấu bước ngoặt trong ngành giáo dục cũng như trong quan niệm về giới trí
thức là năm 1958 và mấy năm sau.
Chịu
ảnh hưởng của cuộc đấu tranh chống phái hữu ở Trung quốc, và cuộc đấu
tranh chống nhóm Nhân văn bên Văn nghệ, giới Đại học trước tiên là khu vực khoa
học xã hội đã có một cuộc “thay máu”.
Do tự bộc
lộ chính kiến riêng, các giáo sư nòng cốt như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo,
Đào Duy Anh, Trương Tửu và lớp trẻ đầy tài năng như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc...
bị cho thôi việc hoặc chuyển sang các viện nghiên cứu thực tế là chỉ ngồi chơi
xơi nước hoặc làm những việc không quan trọng như dịch tài liệu.
Lớp người
thay thế được chọn ra chủ yếu theo tiêu chuẩn chính trị mục đích là giữ sao cho
đại học – và các ngành học thuật tương lai – trong tầm kiểm soát.
(Có
thể tham khảo thêm những đảo lộn của giới Đại học kỳ này qua bài Hoàng Hữu
Yên Một thời để nhớ (Hồi ức) Talawas 27.8.2008 - Chú thích của VTN 31-8-2014)
Ban đầu
nhiều người trong số mới lên này nhũn nhặn, tự nhận là mình chỉ đóng vai trò
thay thế, không đòi hỏi gì về chức danh, vui vẻ với đồng lương bé mọn mà vẫn
chăm chỉ làm việc, và trong thực tế họ đã đóng vai trò thúc đẩy khoa học tiến
tới.
Tuy nhiên đến
khoảng 1973-74 thì có một tình hình mới.
Trong thực
tế giảng dạy và nghiên cứu, nhu cầu chuẩn hoá dù không được đặt ra chính thức,
song vẫn như một xu thế mà bất cứ nền giáo dục nào cũng phải hướng tới. Ít ra
là bề ngoài ta phải có được hình thức cho dễ coi một chút!
Lại thêm
những khía cạnh mới trong tình hình xã hội đòi hỏi điều đó. Cuộc chiến tranh
giải phóng bước vào một giai đoạn kết thúc.
Có một
phương án sau này không xảy ra nhưng lúc đó được tính tới, đó là những cuộc đối
thoại giữa hai xã hội miền bắc và miền nam. Trong cuộc đối thoại đó, không thể
bỏ qua tiếng nói của giới trí thức.
Ta cần phải
có những giáo sư của ta những trí thức của ta chứ!
Phải chứng minh
cho phía bên kia thấy rõ là miền bắc không chỉ biết làm chiến tranh mà còn biết
làm học thuật. Và thế là nhu cầu phong cấp phong chức nổi lên, nó là đòi hỏi từ
hai phía cả từ bên trong bản thân giới học thuật lẫn nhu cầu của xã hội.
Cái
cách của xã hội ta xưa nay vẫn vậy. Thấy cần là làm, không đủ điều kiện cũng
làm, làm bất kể phép tắc. Và từ chỗ ban đầu còn chặt chẽ nghiêm túc, sự mệt mỏi
và nghiệp dư trong quản lý khiến cho công việc càng về sau càng được tiến hành
qua loa dễ dãi,” chín bỏ làm mười mà có khi chỉ năm sáu thôi cũng đã coi là
mười. “
Những người cơ
hội kém cỏi chỉ chờ có thế.
Họ “lẻn” ngay vào
những chỗ đất trống (tôi mượn chữ lẻn từ câu Kiều ‘Đẩy song đã thấy
Sở Khanh lẻn vào” ) và từ chỗ xấu hổ biết điều quay ra chủ động thao túng
tình hình.
Một trong những
trục cột của đạo Nho là thuyết chính danh ”quân quân—thần thần - phụ phụ- tử
tử”. Tức là người nào phải ra người ấy vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con
ra con.
Nhưng từ xã
hội VN cổ truyền, cái thuyết chính danh ấy đã chẳng xâm nhập nổi để làm thay
đổi được ý nghĩ của bất cứ ai, nữa là hôm nay.
Trong phạm
vi toàn xã hội hiện tượng danh thực tách rời ngày càng rõ ràng đến mức
không ai muốn che đậy nữa. Đục nước béo cò, xã hội càng nhiều bóng tối thì lớp
người thiếu học vấn mà thừa mưu mẹo càng dễ lập lờ đánh lận con đen. Còn như
những người tài năng thì không ai muốn cố gắng.
Trong giới
ai cũng biết một giáo sư đại học hàng đầu, ông Đ., mấy chục năm nay toàn soạn
bài và viết báo chay. Tức là không bao giờ để công học và tự mình đọc lấy tài
liệu nước ngoài. Có gì cần, ông đã yêu cầu phòng tư liệu khoa thuê dịch rồi cứ
dựa vào đấy mà xào xáo. Được cái tính nết chăm chỉ nên lên đến giáo sư đầu
ngành và đầu sách in ra đã lên tới con số dăm bẩy chục cuốn. Nghe nói lúc thân
mật ông từng truyền kinh nghiệm cho đám đi sau:
--Tội quái gì mà phải
học ngoại ngữ ? Để thời giờ mà viết là hơn, giờ ai bằng mình nào!
Phải nói loại giáo sư
đại học như thế này không có ở bất cứ nước nào trên thế giới, trừ nước
ta.
Chung quanh câu chuyện
dễ dãi phi chuẩn mực trong ban phát chức tước Lịch triều hiến chương
loại chí ở phần Quan chức chí của Phan Huy
Chú từng có đoạn viết:
“Tước cấp ở đời Lê
rất là quan trọng. Từ đời Hồng Đức đặt quy chế về sau các đời theo nhau
chưa từng cho lạm bao giờ [...]. Gần đây, nhuận triều Tây Sơn
phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ lính đẩy xe cũng đều trao cho tước
hầu tước bá.
Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể được không?”(11)
Điều này cũng
đúng với việc ban phát các chức tước danh vị trong khoa học, tức là cái mầm gây
ra nhiễu loạn, thời nay.
Khi đã chạy theo hư danh,
người trí thức
đã bị làm hỏng hoàn toàn
Cách đây khoảng hai
chục năm, tôi đọc được trên tấm cạc của anh C. một người quen, bên cạnh tên
tuổi có ghi thêm các chức danh sau đây, mỗi chức danh một dòng, tổng cộng chín
dòng.
dòng 1:Nghề anh học ở đại
học
dòng
2: Nghề anh đang làm
dòng
3 : Chủ tịch Hội....
dòng
4: Tổng biên tập báo...
dòng
5: Đại biểu Quốc hội ( năm đó anh đang là một ông nghị)
dòng
6: Thành viên Uỷ ban xxx của Quốc hội
Ngoài
ra là ba chức danh nữa, tôi không nhớ xuể nhưng hình như là các loại giải
thưởng được trao tặng.
Ban đầu tôi cũng thấy
buồn cười, nhưng sau thì thông cảm.
Hồi ấy anh bạn tôi sau
những nỗ lực bền bỉ, từ công việc chuyên môn được ngắm nghía để cơ cấu
vào giới quan chức.
Lớn lên từ đám
học sinh Hà Nội rồi thành cán bộ nhà nước, chúng tôi đã nếm đủ những đau xót
của một bọn người mang tiếng là người làm nghề sáng tạo trong xã hội mà chỉ
công nhân nông dân mới được coi là giá trị.
-- Vâng chúng tôi đã biết lao động chân tay là giá trị rồi. Nhưng chúng tôi cũng có giá trị của chúng tôi chứ.
-- Không được, anh không được biết hơn mọi người!
Luôn luôn chúng tôi cảm thấy mình có tội vì đã coi trọng việc học.
Đó là về tinh
thần. Còn vật chất thì sao? Bao giờ đến lượt được mua xe đạp, bao giờ đến lượt
được tăng lương, những việc đó chờ đã mỏi cổ, nói chi đến việc có được một cái
nhà, xoay được một chuyến đi ngoại quốc?
Không ai
tuyên bố chính thức, nhưng tất cả thực tế hình như đồng thanh rót vào tai mình,
chỉ có một cách hết nghèo hết khổ là lọt vào tầm mắt của lãnh đạo.
Trở
thành quan chức thì tốt nhất. Nếu không thì cũng phải có được những chức danh
trong nghề, nó là cái dấu hiệu đánh dấu mình. Dù có phải luồn cúi chạy chọt một
chút song vì cuộc sống bản thân và gia đình, hãy ráng mà giành lấy cho mình
những danh vị cần thiết.
Tối
mắt tối mũi vì quản lý, các ông phụ trách có nhớ được ai với ai. May mà họ vẫn
buộc phải giữ lấy cái tiếng là tôn trọng khoa học, là biết lắng nghe chuyên
môn. Cách họ thường làm là dựa vào chức danh mà đối xử. Người có chức tước oai
một thì người đứng ra phong tước cho kẻ khác oai mười, xưa nay ai mà chẳng
biết?!
Nên
nhớ ngoài quyền lợi vật chất, những chức danh cũng là điều kiện để người ta làm
chuyên môn giỏi.
Có chức danh anh mới dễ xin được kinh phí cho đề tài của mình. Dễ được tiêu
tiền. Dễ được chọn người cộng tác.
Không nói đâu xa, ngay trong cái nghề văn chương của tôi, chức danh cũng giúp
ích nhiều lắm.
Ngay trong chiến tranh, Hội nhà văn vẫn được sứ quán Pháp ở Hà Nội tặng cho
nhiều cuốn sách vừa in ráo mực bên Pháp. Nhưng sách về thì ông tổng thư ký
Nguyễn Đình Thi nói ngay với bà Huệ vợ nhà văn Bùi Hiển giữ thư viện là cất
ngay vào kho, chỉ ai trong Ban thường vụ Hội mới được đọc.
Không
phải ông Thi tùy tiện làm vậy mà đó là lệnh của trên, mãi ông Tố Hữu, Tổng thư
ký Hội nhà văn chỉ chấp hành lệnh trên.
Nói
của đáng tội hồi ấy với nhiều hội viên Hội nhà văn, giá có cho đọc cũng đâu có
biết tiếng Pháp mà đọc.
Những
những anh em có biết thì hận. Muốn trau dồi nghề nghiệp – nghĩa là muốn
tử tế hơn -- cũng không được. Xã hội không cần. Tốt đâm ra khó, còn hư thì tha
hồ, khéo xin một chút là trên tha ngay.
Trên
đây là câu chuyện của những năm chiến tranh.
Tôi
và các bạn cùng lứa lớn lên vào một giai đoạn thực dụng hơn. Sách vở thì chúng
tôi không thật cần lắm, nhưng nhiều nhu cầu khác lại xuất hiện. Mà trước tiên
là một chỗ để gia đình chui ra chui vào.
Tôi
đã nói là cần thông cảm với anh bạn C. với tấm cạc chín chức danh của mình. Vì
hồi ấy sau khi ghé chân quan trường đoàn thể , anh đang lo xin đất làm nhà.
Đến
đây lại phải kể dài dòng thêm một chút.
Một là tuy
biết trên nguyên tắc trước sau làm quan sẽ sớm được chia nhà, nhưng trong thực
tế không đơn giản ô tô ma tích có ghế là có nhà ngay. Muốn được miếng
ngon miếng sốt, còn phải cạnh tranh chán với các vị quan khác thì mới được như
ý.
Mọi loại
quan đều như vậy. Huống chi quan trong văn nghệ là do dân cử, có khi chỉ ngồi
được vài năm.
Vốn
tính thực dụng, anh bạn tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Ngồi chưa ấm ghế anh
bắt tay ngay vào việc xin đất. Mà anh làm thật khôn ngoan. Người khác hách dịch
công khai huy động cả cơ quan lo chuyện riêng cho mình. Còn C. thì hoàn toàn
lặng lẽ tự mình làm hết. Lặng lẽ viết công văn. Lặng lẽ đóng dấu. Lặng lẽ đến
các nơi có liên quan.
Chính
tấm cạc chín dòng của C mà tôi dẫn ra ở trên xuất hiện trong thời gian đó. Tôi
thầm dự đoán anh bạn đã phải loay hoay rất nhiều trong việc soạn ra danh sách
các chức vụ để không quên một chức nào.
Đây là tôi
nói loại người còn đang hiền lành, nhân biết cái danh có thể đổi ra tiền thì
lợi dụng nó.
Lại
còn loại người thứ hai là điên cuồng săn đuổi danh vị, sau đó mượn danh vị để
tiến thân, ngày càng leo mãi lên trong hệ thống quan chức, dù chỉ là trong phạm
vi quan chức chuyên môn. So với họ, anh C. của tôi còn tử tế chán.
Nhưng
cả loại người này nưã cũng không phải là “ từ trên trời rơi xuống”. Mà họ cũng
là sản phẩm của một sự thích ứng—thích ứng với cách đánh giá người và dùng
người của xã hội.
Nhưng
đây là vấn đề thuộc về khoa xã hội học quan chức mà tôi chưa có dịp
nghiên cứu.
Trong bài
này, trong chừng mực nào đó, tôi đã mở rộng ra nói về thói háo danh và căn bệnh
vĩ cuồng mà người mình thường mắc, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu đã mắc,
tới nay trong hoàn cảnh hội nhập nửa vời với thế giới bệnh lại trầm trọng hơn.
Đây là những quan sát bước đầu, cần sự chia sẻ phản bác của các đồng nghiệp.
Riêng phần
về căn bệnh quý hóa này ở giới trí thức, thì xin bảo đảm là có phần chắc chắn
hơn, nó là kinh nghiệm bốn mươi năm sống trong giới của tôi, nên nhân có bài
của Đặng Hữu Phúc, tôi mới mạnh dạn mang kể. Hai ý chốt lại cuối cùng:
Một là hãy thông
cảm với những người trong cuộc. Không phải người trí thức Việt Nam sinh ra đã
ham chức danh như chúng ta thấy. Hoàn cảnh đẩy họ đến chỗ phải làm vậy.
Hai là bệnh khó chữa lắm. Vì
nó chỉ là một biểu hiện của tình trạng tha hóa trí thức cần được nghiên cứu
trên quy mô rộng hơn và có tầm khái quát hơn. (Bài đăng đã bị rút bớt lại, có thể đọc bản đầy đủ hơn tại blog Vương Trí Nhàn )
BÀI LIÊN QUAN:
>>> Tìm hiểu chính sách đào tạo lớp trí thức mới của nhà nước Nga - Xô viết để hiểu trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét